Những câu hỏi liên quan
Đặng Hồ Uyên Thục
Xem chi tiết
Nguyễn Trọng Minh Tín
3 tháng 3 2016 lúc 13:50

Năm 1952,Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Với chuyến đi dài 8 tháng ấy, Tô Hoài đã sống cùng đồng bào các dân tộc : Mèo, Thái, Dao, Mường ở nhiều vùng ở đây. Chuyến đi ấy đã giúp ông hiểu rõ về cuộc sống và con người miền Núi đã để lại cho ông những kỉ niệm khó quên và tình cảm thắm thiết đối với đất nước và con người Tây Bắc.

Truyện “Tây Bắc” là kết quả của chuyến đi đó, là tác phẩm văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp .

Tác phẩm này được tặng giải I của hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.

“Vợ Chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc được rút ra từ tập truyện “Tây Bắc”.

Bình luận (0)
Quang Nguyen
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
8 tháng 2 2018 lúc 15:13

Đáp án cần chọn là: A

Bình luận (0)
Rhider
Xem chi tiết
minh nguyet
26 tháng 11 2021 lúc 14:35

Tham khảo:

Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người đọc.

Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài đã rất khéo léo khi gợi tả hình ảnh của Mị qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự đối lập đến đau lòng giữa căn nhà rộng lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của người con gái bí hiểm đó. Một cô gái chịu sự dày vò về tinh thần, nhưng dường như lại có sức mạnh, nghị lực phi thường đang được nhen nhóm trong lòng của Mị.

Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng cuộc sống của Mị sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mị với nhà thống lí đã khiến cho cuộc đời cô rơi vào bế tắc và tuyệt vọng như bây giờ. Thương cha, thương cho thân phận hẩm hiu của mình mà Mị đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống Lý trong tủi nhục và đau khổ.

Tô Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mị tại nhà thống Lý, một cuộc sống cơ cực, không khác gì thân trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mị lại bị đối xử không khác gì nô lệ, thậm chí thân trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và tinh thần khiến cho Mị ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt vọng.

Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng thái lầm lũi, một kẻ sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó cửa, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to bằng bàn tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ cuộc đời Mị, khiến cho cuộc đời một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chôn vùi nơi đây. Thống lí Pá Tra là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hà khắc, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng không thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé họng không biết kêu than ai, chỉ biết chấp nhận và chịu đựng.

Đã có lúc Mị muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ đến cảnh người cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực. Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mị dường như đã không còn. Mị chấp nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết. Bên trong Mị vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ.

Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính người đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó dường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực trong cuộc sống. Mị đã lén uống rượu, trong cơn say, Mị đã ý thức được bản thân mình muốn gì “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn ở với nhau”. Lúc ấy Mị đã ý thức được những khát khao trong lòng mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mị từng có.

Nhưng chính hành động này của Mị đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mị vào cột và bỏ đó đi chơi. Mị vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về dữ dội. Tuy nhiên thực tại đã kéo Mị lại với những gì mà Mị đang đối mặt: đau đớn và tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhức.

Tuy nhiên có thể nói cảnh tượng Mị cởi trói cho A Phủ mới là cảnh tượng khắc họa cực kỳ sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mị. Mị đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ đêm hôm ấy đã đánh thức tình cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mị: “Đêm ấy A Phủ khóc, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen”. Giọt nước mắt ấy đã khiến thay đổi cuộc đời Mị về sau.

Chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về tinh thần. Sự đè nén bấy lâu nay trong lòng Mị đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mị đã có thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mị tự đấu tranh, Mị không thể mãi chịu cảnh bị người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người của Mị. Đây cũng chính là sự thành công của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này.

Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt hình tượng nhân vật Mị để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.

Bình luận (0)
Rhider
26 tháng 11 2021 lúc 14:36

Mịn Nguyeeth lớp 12 à

Bình luận (0)
amy X Gacha
28 tháng 11 2021 lúc 20:48

Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng từ trước cách mạng tháng Tám. Ông là một người có vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. “Vợ chồng A Phủ” là một trong ba tác phẩm được in trong tập truyện Tây Bắc – tác phẩm được giải Nhất giải thưởng hội Văn nghệ Việt Nam từ 1954 – 1955. Đó là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào Tây Bắc năm 1952. Trong truyện ngắn này, có ý kiến cho rằng: "Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì huỷ diệt được của kiếp nô lệ. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân đạo lớn lao, tiến bộ của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Điều này được thể hiện rõ nét qua hai đoạn văn sau "Lần lần..." và "Bây giờ,..."

Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác và tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết, cha Mị sẽ khổ, sẽ không thể trả được món nợ cho nhà Thống Lí. Mị đành chấp nhận quay trở lại nhà Thống Lí để làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất hạnh.

Đoạn văn đã tập trung khắc họa nỗi thống khổ đọa đầy về thể xác lẫn tinh thần của Mị ở nhà thống lí. Trước hết là những đọa đầy về tinh thần. Những đau khổ đã bao mòn tâm hồn của Mị, cô trở thành người đàn bà nhẫn nhục, chịu đựng, buông xuôi, bỏ mặc cuộc đời “Lần lần…tự tử nữa”. Mị không còn khả năng đấu tranh nữa, với Mị, cuộc sống chỉ còn là sự tồn tại. Mị định sống cuộc sống như vậy cho đến chết. Mới đầu, làm dâu nhà thống lí, Mị không khuất phục, Mị cũng đã từng nuôi ý định tự vẫn. Còn giờ đây, Mị không buồn nghĩ đến cái chết nữa. Đây là một tình tiết khám phá xuất sắc về nội tâm nhân vật của tác giả. Bởi vì khi con người nghĩ về cái chết, tức là họ còn tha thiết được sống, được tận hưởng cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng khi không còn buồn nghĩ đến nó nữa thì đây là sự buông thả số phận cho định mệnh mà không còn ý niệm về sự tồn tại của mình. Hơn thế nữa, Mị còn tưởng mình là con trâu con ngựa. Hai từ “trâu ngựa” không phải chỉ là nói theo nghĩa bóng, mà là theo nghĩa đen. Mị về làm dâu chỉ có vùi vào việc cả đêm lẫn ngày. Như một linh hồn chết, “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”. Dần dần, Mị sống như thế cũng thành quen với cái khổ, cái nhục, thích nghi với đời sống nô lệ. Mị sống như cái máy, như một thực thể không ý thức về mình. Với cô, cuộc sống không còn ý nghĩa nữa, tất cả chỉ còn là màn sương mờ đục. Cụm từ chỉ thời gian “lần lần”, “mấy năm qua”, “mấy năm sau” đã nhấn mạnh trình tự luân hồi của thời gian chậm rãi, đều đặn. Lý giải cho thái độ này của cô là “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chữ “quen” mang đến cho người đọc biết bao chua xót, đắng cay, thương cảm. Thậm chí, Mị chỉ nhớ đi nhớ lại, làm đi làm lại những việc nối tiếp nhau. Nói là Mị nhớ nhưng không phải là những rung cảm, cảm xúc bình thường ở một con người bình thường. Mị chỉ nhớ một cách máy móc những gì diễn ra theo một thói quen với sự lặp lại quẩn quanh. Mị nhớ một cách vô hồn vô cảm tựa như một vòng tròn tù túng không lối thoát.

 

 Hơn thế nữa, Mị còn bị đày đọa về thể xác. Cô phải làm việc quần quật từ sáng đến tối, quanh năm suốt tháng, không một ngày nghỉ ngơi “Tết xong thì lên…”. Mị làm việc quần quật suốt ngày suốt tháng suốt năm suốt đời như thế. Dù làm dâu nhà giàu nhưng đó chỉ là danh nghĩa chứ thực chất Mị là một nô lệ, lao động khổ sai. Mị như bị cướp đoạt công sức một cách tàn nhẫn: con ngựa con trâu có lúc, đêm đến nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ còn đàn bà con gái trong nhà này thì vùi vào làm việc. Cuộc sống của Mị giờ đây chỉ “mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng đi làm đi làm lại” cực khổ và vất vả, thậm chí còn chẳng bằng con trâu con ngựa. Con trâu con ngựa còn được nghỉ ngơi, đằng này đàn bà con gái phải làm việc cả đêm lẫn ngày. Việc so sánh con người với con vật của tác giả đã thể hiện sự tủi cực cùng nỗi đau của một kiếp người. Với đoạn văn trên (chi tiết “Mị không muốn chết”) là bằng chứng để tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi đã bào mòn tâm hồn con người.

Với ngòi bút hiện thực, lối kể chuyện nhẹ nhàng mà tinh tế, hấp dẫn, Tô Hoài đã khắc họa nổi bật bi kịch đau khổ, bất hạnh của Mị. Đây cũng là số phận tiêu biểu cho những người phụ nữ, những người lao động trên miền núi Tây Bắc. Tô Hoài đã vén màn bí ẩn để giúp cho bạn đọc miền xuôi vừa am hiểu, vừa thêm gần gũi, gắn bó với cuộc sống, con người Tây Bắc. Ta nhận ra số phận, cuộc đời của Mị rất gần gũi, quen thuộc như biết bao những số phận cảnh đời trên văn đàn miền xuôi. Qua số phận đau khổ, bất hạnh của Mị, Tô Hoài đã khẳng định sự đồng cảm, quan tâm sâu sắc đến số phận đau thương của những người lao động vùng cao Tây Bắc. Đồng thời, tác giả cũng tố cáo, lên án đanh thép tội ác dã man của chế độ phong kiến miền núi Tây Bắc. Chúng đã chà đạp, áp bức bóc lột những người phụ nữ, những người lao động vùng cao. Phản ánh về hiện thực này, Tô Hoài còn muốn kêu gọi phong trào du kích, phong trào cách mạng cần mau chóng giải phóng cho những con người lao động vùng cao Tây Bắc. Đây là thiên chức cao cả, sứ mệnh cao đẹp trong sáng tác của Tô Hoài.

Đoạn văn thứ hai đã cho người đọc thấy rõ sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của Mị. Khi A Sử trở về từ những cuộc vui, khi hắn còn muốn bắt thêm mấy người con gái nữa về làm vợ, “Mị cũng không nói gì”. Mị im lặng. Nhưng sự im lặng trong ngôn ngữ ấy không phải là sự nhẫn nhục, chịu đựng của một người đàn bà với một tâm hồn đã hao mòn. Trái lại, sự im lặng ấy như một phương thức thể hiện sự phản kháng của Mị trước kẻ trực tiếp chà đạp lên số phận của mình. Sự im lặng của Mị chính là một minh chứng cho khát vọng sống, khát vọng tự do của Mị, Mị không chấp nhận cái kiếp sống con trâu, con ngựa, Mị phản kháng, đấu tranh chống lại sự áp bức, chà đạp. Để rồi từ sự im lặng trong lời nói ấy đã dẫn đến một loạt hành động: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng”. Nhà văn đã sử dụng một loạt câu văn ngắn để diễn tả một chuỗi hành động xảy ra liên tiếp đồng thời cho thấy thái độ của Mị trước người chồng trên danh nghĩa - không buồn để ý cũng chẳng quan tâm. Hành động Mị sắn miếng mỡ “bỏ vào đĩa đèn cho sáng” có thể nói mang nhiều ý nghĩa. Dường như Mị muốn nương nhờ vào cái ánh sáng của đĩa đèn để thắp sáng cho cuộc đời chính mình, để thắp sáng thế giới xung quanh. Ánh sáng nơi đĩa đèn tuy có thể nhó bé những cũng đủ để Mị có thể nhìn rõ cảnh tượng quanh mình, đủ để nhìn nhận cuộc đời cho rõ. Nó hoàn toàn đối lập với cái sự tăm tối, âm u của căn buồng kín mít mà Mị ở. Nếu trước kia, ở trong một căn buồng tối đen với chỉ một chút ánh sáng len lỏi từ cái ô cửa số bé bằng bàn tay, Mị cũng chẳng nghĩ ngợi, cũng chẳng quan tâm đến thế giới ngoài kia thậm chí Mị từng nghĩ cứ ở trong cái cái lồng giam chật hẹp, tù túng ấy sống một cuộc đời bế tắc cho đến chết; nhưng giờ đây chính Mị lại dùng ánh sáng ấy để soi rọi mọi vật, soi rọi cuộc đời của mình. Hành động này sắn miếng mỡ “bỏ vào đĩa đèn cho sáng” đã cho thấy rõ sự thay đổi trong ý thức, nhận thức, tình cảm của Mị.

Đến đây, trong đầu Mị vẫn “rập rờn tiếng sáo”. Chính cái tiếng sáo đã đánh thức được sự sống đang ngủ say trong Mị; cái tiếng sáo đã giúp Mị sống lại những kí ức thời thanh xuân tươi đẹp tưởng như đã tiêu biến; cái tiếng sáo đã đem đến sự hồi sinh trong tâm hồn của người con gái Mèo đã chịu bao đau đớn, tủi nhục về thể xác và tâm hồn. Nó vẫn quẩn quanh, miên man trong tâm trí Mị. Và cái âm thanh đầy mê hoặc ấy đã thôi thúc khao khát được đi chơi trong Mị “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Mị muốn giải thoát mình khỏi cuộc sống đầy tủi nhục, đắng cay ấy. Mị muốn được bước ra khỏi căn buồng tăm tối, muốn tháo cũi sổ lồng, để được tự do, tự quyết. Mị muốn được ngắm nhìn cái thế giới đầy hương sắc, cỏ cây mà Mị đã lâu chưa được nhìn, được nghe. Để rồi từ ý thức đến hành động. Mị bắt đầu sửa soạn đi chơi với khao khát mãnh liệt của tuổi trẻ, với sự náo nức của người đã tìm ra ánh sáng sau đêm dài “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Chi tiết Mị quấn tóc, với tay lấy cái váy hoa không chỉ là hành động bản năng của người phụ nữ là thích làm đẹp mà còn thể hiện khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ. Bao rạo rực mê say trong tâm hồn người con gái trẻ gửi trong hành động ấy. Hành động ngỡ như đột ngột, nhưng nó là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại giữa hoàn cảnh và tâm lí nhân vật. Lời văn không còn đượm buồn hiu hắt mà như được sưởi ấm bằng chính tấm lòng đồng cảm mà nhà văn dành cho nhân vật của mình. Tất cả những hành động trên tưởng như rất đơn sơ, thường nhật nhưng với Mị nó vô cùng đặc biệt. Hành động chuẩn bị đi chơi chính là hành động giải phóng chính mình ra khỏi những trói buộc vô hình ở nhà thống lí Pá Tra để có thể bước qua những giới hạn để khẳng định quyền sống, tự do của con người. Không chỉ vậy, tất cả những hành động này đều diễn ra trước mặt A Sử, nó cho thấy rõ sự phản kháng, sự thách thức của Mị trước kẻ đã tước đi quyền sống của mình.

Song chưa kịp bước ra khỏi căn buồng tăm tối ấy, Mị đã bị A Sử trói lại. Hắn trói Mị một cách đầy tàn nhẫn, dã man: “lấy thắt lưng trói hai tay Mị”, xách “một thúng sợi đay trói đứng Mị vào cột nhà”, quấn tóc Mị lên cột khiến “Mị không thể cúi, không thể nghiêng được đầu”. Tô Hoài đã sử dụng bút pháp tả thực cùng những câu văn dài với hệ thống dấu câu để diễn tả cảnh Mị bị trói đầy thương tâm. Mị bị đối xử một cách độc ác, tàn nhẫn. A Sử trói Mị như muốn chặt đứt đi sức sống mới hồi sinh trong người con gái ấy. Cảnh Mị bị trói đã nhấn mạnh cái hiện thực nghiệt ngã, nhấn mạnh những đọa đày về mặt thể xác mà cha con thông lí đã gây ra.

Bình luận (0)
Đạt Minh
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
11 tháng 6 2017 lúc 2:07

- Đoạn 1: cụm từ “ một đêm khuya” được đặt đầu câu nhằm nêu hoàn cảnh, thời gian cho các sự kiện xảy ra. Trạng ngữ “sáng hôm sau” có tác dụng liên kết câu vì thế phải nằm đầu câu

- Đoạn 2: trạng ngữ chỉ thời gian “một buổi sáng tinh sương” đặt giữa câu, đằng sau hành động của chủ thể.

- Đoạn 3: “đã mấy năm” nằm cuối câu mục đích thông báo, nó biểu thị phần tin mới, phần trọng tâm. Tuy giữ vai trò thứ yếu về mặt ngữ pháp nhưng nó lại giữ vai trò quan trọng về mặt thông báo nên nó cần đặt ở cuối câu.

Bình luận (0)
Sơn Vũ Xuân
Xem chi tiết
Nguyễn Thành Nguyên
Xem chi tiết
Nguyễn Lê Đức Nhân
3 tháng 3 2016 lúc 11:07

DÀN Ý

1. Phân tích nhân vật:

 -Mị trước khi làm dâu nhà thống lý: Cô gái người Mèo xinh đẹp, yêu đời, có tài thổi sáo, khao khát yêu và đã được yêu.

 - Mị, con dâu gạt nợ nhà thống lý: Người đàn bà sống nhẫn nhục trong tăm tối =>Danh nghĩa là con dâu song kì thực là nô lệ, Mị là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần

 - Sức sống mãnh liệt của Mị:

            + Lần 1: Mới bị bắt về làm dâu=> định tìm đến cái chết vì không chấp nhận sống nô lệ

            + Lần 2: Trong đêm tình mùa xuân=> Mị muốn đi chơi

             + Lần 3: Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị đã cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ=> hành động bất ngờ, bột phát thể hiện tinh thần phản kháng và khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng.

- Mị đến với cách mạng như là một tất yếu của quy luật có áp bức có đấu tranh, từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác

2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua nhân vật Mị:

- Nhân đạo là thương người vì con người mà lên tiếng

- Câu chuyện đau buồn của Mị không phải là chuyện riêng của Mị mà tiêu biểu cho người phụ nữ miền núi trong chế độ phong kiến- thực dân

- Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đẹp tiêu biểu cho khát vọng sống khát vọng hạnh phúc của người dân miền núi và hành trình tất yếu tìm đến cách mạng của họ

=> Truyện mang giá trị nhân đạo sâu sắc: xót xa với những số phận bất hạnh, ngợi ca những tâm hồn tuổi trẻ yêu đời trong sáng, bất bình với những tội ác man rợ của bọn quan lại miền núi và đồng tình với khát vọng giải phóng của người dân miền núi với chế độ thực dân phong kiến xưa

. Điều này có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình

Bình luận (0)
vodangkhanhqd123
3 tháng 3 2016 lúc 11:11

limdimokoe

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
14 tháng 8 2019 lúc 17:13

Viết năm 1952, đây là sản phẩm của chuyến thâm nhập thực tế, cùng ăn, cùng ở, cùng gắn bó với đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc suốt 8 tháng của Tô Hoài trên núi cao đến các bản làng mới giải phóng

Đáp án cần chọn: A

Bình luận (0)